Đề cương tuyên truyền các ngày lễ kỷ niệm trong quý II năm 2012

05/04/2012 18:52
KỶ NIỆM 37 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (30/4/1975 - 30/4/2012); KỶ NIỆM 126 NĂM NGÀY QUỐC TẾ LAO ĐỘNG (01/5/1886 - 01/5/2012); KỶ NIỆM 122 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (19/5/1890 - 19/5/2012).

 

                 I. KỶ NIỆM 37 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (30/4/1975 - 30/4/2012)

1. Ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

a. Ý nghĩa lịch sử: 

- Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta, đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa Tổ quốc ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do và CNXH.

- Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.

b. Nguyên nhân thắng lợi:

Thứ nhất: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Thứ hai: Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ chiến đấu dũng cảm ngoan cường bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền con người.

Thứ ba: Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Thứ tư: Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Thứ năm: Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.

2. Bài học kinh nghiệm

Một là: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.

Hai là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Ba là: Vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng chiến tranh nhân dân Việt Nam.

Bốn là: Chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành những thắng lợi quyết định.

Năm là: Phải luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.

3. Thành tựu sau 37 năm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc:

Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trên toàn quốc với hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đi bầu và bầu ra 492 đại biểu. Quốc hội quyết định lấy tên nước là Cộng hòa XHCN Việt Nam (từ 2/7/1976). Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy là "Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam thống nhất. Thành phố Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy toàn diện sức mạnh phát triển đất nước, tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên CNXH, có những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Từ đó đến nay, nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, thực hành dân chủ, phát huy sức sáng tạo của nhân dân, được quán triệt trong nhiệm vụ xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân. Quốc hội có những bước đổi mới quan trọng, từ khâu bầu cử đại biểu đến hoàn thiện cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, làm tốt hơn chức năng lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường và lắng nghe ý kiến cử tri. Nâng cao sức chiến đấu vai trò, vị trí của Đảng cầm quyền chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức được tăng cường. Chính phủ có nhiều cải tiến trong phương thức hoạt động, trong thực hiện cải cách hành chính theo tinh thần phục vụ nhân dân. Hệ thống chính trị được củng cố, phân định rõ hơn trách nhiệm và quyền hạn đảm nhiệm ngày càng toàn diện hơn việc lãnh đạo, quản lý sự phát triển đất nước.

Kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) được thực hiện trong hoàn cảnh khó khăn nhưng nhân dân ta đã vượt qua và đạt được một số thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: khắc phục hậu quả chiến tranh, cải tạo quan hệ sản xuất ở miềnNam, phát triển y tế, văn hóa, giáo dục. Thực hiện kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), nông nghiệp tăng bình quân 4,9% so với 1,9% hàng năm của thời kỳ (1976 - 1980). Sản xuất lương thực từ 13,4 triệu tấn (thời kỳ 1976 - 1980) lên 17 triệu tấn. Thu nhập quốc dân tăng bình quân 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước. Nhiều công trình quan trọng về dầu khí, dệt, giao thông, thuỷ lợi… được xây dựng.

Tuy vậy, trong xây dựng kinh tế, chúng ta đã phạm những sai lầm, khuyết điểm trong chủ trương, chính sách cũng như trong quá trình chỉ đạo thực tiễn. Nhưng Đảng sớm nhận thức tình hình đất nước, bối cảnh quốc tế, kiên định mục tiêu, con đường đi lên CNXH, thẳng thắn đánh giá những vấp váp, sai lầm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân và dân tộc, khởi xướng đường lối đổi mới và quyết tâm tiến hành sự nghiệp đổi mới vì hạnh phúc của nhân dân.

Đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc sống và đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Về lương thực, thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn năm 1990, chúng ta đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân và cân đối cán cân xuất - nhập khẩu. Năng lực của nhiều ngành kinh tế tăng mạnh. Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo. Tiềm năng các thành phần kinh tế khác được khơi dậy, đem lại sức sống mới cho nền kinh tế. Hàng hoá trên thị trường dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi. Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân tăng hàng năm: 10 năm (1990 - 2000) đạt 7,5%; 5 năm (2001 - 2005) đạt 7,51%. Trong hai năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội X, tốc độ GDP đạt mức cao hơn so với mục tiêu đề ra năm 2006 là 8,23%, năm 2007 là 8,48%. Năm 2008, do tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động, ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước, GDP đạt 6,23%. Năm 2009, trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng âm, Việt Nam vẫn là một trong số ít các nước có tốc độ tăng trưởng khá, đạt 5,32%. Năm 2010, kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá cao, đạt 6,7%. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được hoàn thiện. Quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn, tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất. Các loại thị trường từng bước được hình thành và phát triển, gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới.

Nhà nước không ngừng đầu tư cho các mặt thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội, qua đó đã có nhiều chuyển biến trong cải thiện đời sống tinh thần nhân dân. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xoá nạn mù chữ. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Tuổi thọ của người dân ngày càng tăng. Tỷ lệ hộ nghèo liên tục giảm theo các năm. Chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm trung bình cao của thế giới. Thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng. Đã hoàn thành phần lớn mục tiêu thiên niên kỷ do LHQ đề ra cho năm 2015. Phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước và cả xã hội quan tâm. Pháp lệnh quy định danh hiệu Nhà nước về Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng cùng hệ thống cơ chế chính sách ưu đãi được ban hành. Một số tồn đọng hoặc mới nảy sinh đã và đang được giải quyết tích cực, khẩn trương như xác định liệt sĩ, thương binh, chính sách đối với người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học, vấn đề tìm mộ liệt sĩ… Vấn đề tạo điều kiện ưu đãi về tín dụng đào tạo nghề, phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo cho đối tượng chính sách được quan tâm. Phong trào "Đền ơn đáp nghĩa" đạt được thành tích lớn, phát huy được sức mạnh xã hội tham gia công tác chăm sóc người có công.

37 năm qua, chúng ta đã bảo vệ được thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới, nâng cao trình độ hiểu biết về quốc phòng an ninh và ý thức trách nhiệm nghĩa vụ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển tiềm lực quốc phòng theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và có đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội.

Chúng ta đã phá vỡ thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. Giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia, xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn. Thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước. Gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), có quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với trên 160 quốc gia và 70 vùng lãnh thổ; tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tham gia nhiều tổ chức quốc tế, là Uỷ viên không Thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008 - 2009. Giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước xung quanh, tham gia giữ môi trường hòa bình ở khu vực. Quan hệ Việt - Mỹ đã có những bước phát triển nhanh và thiết thực trên các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, giáo dục khắc phục hậu quả chiến tranh…

4. Phát huy tinh thần cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ViệtNam XHCN.

a. Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu của đại thắng mùa Xuân 1975, động viên toàn thể dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được thể hiện trên tất cả các lĩnh vục như: đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và an ninh chính trị, lao động sản xuất nghiên cứu, học tập xả thân cứu dân trong thiên tai, thảm họa, đoàn kết dân tộc, tương thân tương ái, gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc…

b. Phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của đại thắng mùa Xuân 1975 để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không chịu tụt hậu, từng bước tiến kịp thời đại, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, có vị thế xứng đáng trên thế giới. Khát vọng đó của dân tộc cũng thiêng liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ quốc.

c. Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp đổi mới. Ngày kỷ niệm 30/4 hằng năm là ngày hội chung, ngày chiến thắng của cả dân tộc, là dịp phát huy mạnh hơn tinh thần hòa hợp, ý chí đoàn kết, thống nhất của mọi người Việt Nam, chung lưng dốc sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, không phân biệt quá khứ, vượt lên những khác biệt về dân tộc, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế, chính kiến. Chúng ta thực hiện phương châm khép lại quá khứ hướng tới tương lai, tiếp tục tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với chính phủ và nhân dân các nước đã từng tham gia chiến tranh Việt Nam, đánh giá cao bước phát triển tích cực trong quan hệ giữa các nước đó với Việt Nam trong thời gian qua.

d. Kết hợp sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường giáo dục giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần yêu nước lòng tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy nội lực của đất nước với sự giúp đỡ, hợp tác với các nước, tận dụng triệt để các nguồn lực trong và ngoài nước, giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại, thực hiện tốt đường lối đối ngoại đa phương, rộng mở, thêm bạn, bớt thù, tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước theo con đường XHCN.

đ. Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người mới: Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt niềm tin vào thế hệ trẻ sẽ nối tiếp xứng đáng sự nghiệp của cha anh trong điều kiện mới, tiến quân vào khoa học và công nghệ, vươn tới những đỉnh cao của trí tuệ loài người, nâng tầm văn hóa trong cuộc sống năng động sáng tạo trong học tập, lao động, kinh doanh, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động văn hóa, xã hội, trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quốc phòng. Thế hệ thanh niên trước đây đã đảm đương xuất sắc vai trò xung kích trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến; ngày nay là lực lượng xung kích trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.

e. Phát huy tri thức, kinh nghiệm quân sự, công tác tư tưởng trong đại thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Quốc phòng vững mạnh sẽ góp phần trực tiếp vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm và tạo điều kiện quan trọng cho việc thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước. Không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng - an ninh xây dựng ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho mọi công dân nhằm khơi dậy, phát huy những giá trị truyền thống yêu nước của dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.

Kỷ niệm 37 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc là dịp chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị những bài học kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

II. KỶ NIỆM 126 NĂM NGÀY QUỐC TẾ LAO ĐỘNG (1/5/1886 - 1/5/2012)

1. Sự ra đời của Ngày Quốc tế Lao động 1/5

Ở bất cứ nước tư bản chủ nghĩa nào, người lao động cũng bị áp bức, bóc lột rất nặng nề, một ngày phải làm việc từ 14 đến 15 giờ, làm cho họ "không bao giờ chồng được thấy mặt vợ, cha được thấy mặt con dưới ánh mặt trời". Đồng lương không đủ sống, nhà ở rất chật chội và thiếu vệ sinh, điều kiện lao động vô cùng cực khổ, bọn cầm quyền đàn áp, khủng bố rất dã man...

Ngày 01/5/1886, lần đầu tiên ở nước Mỹ nổ ra cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động với những lời kêu gọi nảy lửa: "Từ hôm nay trở đi, không một người công nhân nào phải làm việc quá 8 giờ một ngày, 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ học tập". Ngay ngày hôm đó, có hơn 5.000 cuộc bãi công xảy ra trên khắp nước Mỹ với hơn 34 vạn người tham gia. Đặc biệt, ở một số thành phố lớn của Mỹ như: Chi-ca-gô, Niu-oóc, Pítxbớc, Ban-ti-mo, Oa-sinh-tơn... có hơn 125.000 công nhân tham gia, buộc giới tư bản phải thừa nhận quyền một ngày làm việc 8 giờ.

Thành phố Chi-ca-gô là trung tâm công nghiệp lớn nhất của Mỹ đã đi vào lịch sử bằng những cuộc đấu tranh quyết liệt nhất của giai cấp công nhân Mỹ vào cuối thế kỷ XIX. Đồng thời, tại Đại hội Liên đoàn lao động Mỹ đã thông qua một Nghị quyết: "Bắt đầu từ 1/5/1886, ngày lao động của tất cả mọi người công nhân sẽ làm việc 8 giờ" và kêu gọi các tổ chức công nhân, viên chức chuẩn bị đấu tranh để đạt mục đích đó.

Tại Đại hội Quốc tế lần thứ 2 năm 1889, dưới sự chỉ đạo của Ăng-ghen, một Nghị quyết quan trọng được thông qua: "Đoàn kết giai cấp công nhân quốc tế đấu tranh cho khẩu hiệu "Ngày làm việc 8 giờ" và chọn ngày 1/5 hàng năm làm ngày đấu tranh của giai cấp công nhân trên thế giới".

Hưởng ứng Nghị quyết của Đại hội Quốc tế lần thứ 2, ngày 1/5/1890, công nhân nhiều nước đã bãi công, đấu tranh chống bọn tư bản. Nhiều cuộc biểu tình, mít tinh tuần hành được tổ chức ở Mỹ, Canađa, Pháp, Đức, Áo, Đan Mạch, Bỉ, Thụy Điển, Ru-ma-ni, Hà Lan, Ý... giương cao khẩu hiệu chiến đấu của Mác và Ăng-ghen đề ra: "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại". Công nhân Anh đòi ban hành đạo luật quy định ngày làm việc 8 giờ trong phạm vi toàn thế giới; ở Pari (Pháp) đã có 100.000 công nhân biểu tình rầm rộ đòi thực hiện ngày làm việc 8 giờ. Từ đó, ngày 1/5 đã trở thành ngày biểu dương lực lượng của giai cấp công nhân, ngày đoàn kết quốc tế của những người lao động, ngày hội của nhân dân bị bóc lột.

2. Kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1/5 ở Việt Nam

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, ngày 1/5/1930, lần đầu tiên công nhân và nhân dân ta tổ chức kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động. Từ các thành phố lớn như: Hà Nội, Huế, Vinh, Sài Gòn - Gia Định đến các vùng nông thôn như: Thái Bình, Nghệ An, Long Xuyên, Sa Đéc đều treo cờ búa liềm, rải truyền đơn và tổ chức mít tinh, biểu tình tuần hành thị uy. Đặc biệt là ở thành phố Vinh - Bến Thủy hàng ngàn nông dân kéo về sát cánh với công nhân biểu tình đấu tranh với bọn thực dân tư bản đòi ngày làm việc 8 giờ, tăng lương, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố. Cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mở đầu bằng cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh - cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 18/2/1946, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh công bố: "Ngày 1/5 là một trong những ngày quốc lễ lớn”. Sau đó, Nhà nước quy định ngày 1/5 là một trong những ngày lễ chính thức, công nhân, viên chức được nghỉ vẫn hưởng lương.

Từ đó đến nay, dù trong kháng chiến hay trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày 1/5 là ngày hội hàng năm của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ mới.

Kỷ niệm 126 năm Ngày Quốc tế Lao động 1/5, mỗi cán bộ, công nhân, viên chức, lao động tỉnh Quảng Ninh cần phải phát huy thật tốt truyền thống “kỷ luật, đồng tâm” của người công nhân vùng mỏ, ra sức thi đua lao động, sản xuất, học tập, công tác; không ngừng củng cố và tiếp tục phát huy sức mạnh liên minh công - nông - trí thức, nền tảng của sự nghiệp đoàn kết toàn dân, góp phần xây dựng tỉnh Quảng Ninh ngày càng giàu, đẹp, văn minh.

III. KỶ NIỆM 122 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (19/5/1890 - 19/5/2012)

1. Thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên thật là Nguyễn Sinh Cung), sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Chứng kiến cảnh nhân dân sống lầm than, cực khổ dưới ách thực dân tàn bạo, cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối cứu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước với hành trang ban đầu là lòng yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, khát vọng độc lập, tự do.

Người đến nước Pháp, một trung tâm văn minh của thế giới lúc bấy giờ và cũng là kẻ thù đang thống trị dân tộc mình. Ngày 18/6/1919, với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Véc-xây bản yêu sách, đòi Chính phủ các nước dự Hội nghị phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, đi đến nhiều châu lục, tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở các nước tư bản và nhiều nước thuộc địa của chúng, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thức được xu hướng phát triển của thời đại như một tất yếu lịch sử. Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành người cộng sản, được chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, Nguyễn Ái Quốc vụt lớn lên, ngang tầm sứ mệnh của con người làm nên lịch sử.

Những năm hoạt động trong phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm của các đảng cộng sản, kinh nghiệm của Liên Xô - quê hương của Cách mạng Tháng Mười, Người đã tích luỹ được những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, hình thành dần dần đường lối cứu nước. Người đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Để kết hợp cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp (1921), xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Ủy viên Thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở châu Á, xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường Kách mệnh (1927).

Để tiến tới chuẩn bị thành lập Đảng của những người cộng sản Việt Nam, năm 1925, Người thành lập “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” và tổ chức “Cộng sản đoàn” làm nòng cốt cho Hội; đào tạo cán bộ để lãnh đạo Hội, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta. Năm 1929, những tổ chức cộng sản đầu tiên ra đời ở Việt Nam. Ngày 3/2/1930, Người đã chủ trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Đông Dương, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do người trực tiếp soạn thảo như “Chánh cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”, “Chương trình tóm tắt” và “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam”, là mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.

Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc trong giai đoạn mới, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội (Hội Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, chuẩn bị căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khoá I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).

Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng.

Ngày 19/12/1946, Người kêu gọi cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc; bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách mạng Tháng Tám.

Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (1954).

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) nhất trí bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục giữ chức Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.

Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít - Lêninít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản Quốc tế và phong trào Giải phóng dân tộc. Người được tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) phong tặng danh hiệu: Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến tài sản tinh thần to lớn cho dân tộc - đó là tư tưởng Hồ Chí Minh

Từ Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định vai trò, ý nghĩa to lớn của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) và Đại hội X của Đảng (4/2006) Đảng ta tiếp tục khẳng định và làm rõ thêm nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một sự tổng kết sâu sắc và là bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng. Đây cũng là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng, đáp ứng tình cảm và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.

3. Hồ Chí Minh -người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn

a. Hồ Chí Minh - người anh hùng giải phóng dân tộc, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế:

Ngày 03/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một mốc son chói lọi, một bước ngoặt mà người sáng lập là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, chấm dứt thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc tự phát, chuyển sang giai đoạn mới với phương hướng rõ ràng và bước đi vững chắc. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, gắn kết dân tộc thành một khối, khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh tiềm tàng của toàn dân tộc, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 02/9/1945, Hồ Chủ tịch đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới “Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập”.

Giành được chính quyền đã khó, giữ được chính quyền càng khó khăn hơn nhiều. Chính quyền cách mạng non trẻ mới ra đời, thù trong, giặc ngoài tìm cách phá hoại đất nước; cùng lúc đấu tranh chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trước tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã sáng suốt, tài tình, lãnh đạo đất nước vượt qua cơn hiểm nghèo, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng.

Đất nước ta, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã anh dũng trường kỳ kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, đứng đầu là thực dân Pháp và chủ nghĩa thực dân kiểu mới là đế quốc Mỹ; giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy và phát huy cao độ khí phách anh hùng của cả dân tộc với những lời kêu gọi vang dậy núi sông: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”, “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết tâm giành lại độc lập dân tộc, thống nhất cho Tổ quốc”…

Thực hiện lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay” và trong Di chúc trước lúc đi xa Bác căn dặn “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Đảng ta kiên định những vấn đề quan điểm có tính nguyên tắc, lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa rất quan trọng; củng cố độc lập dân tộc, tiến bước vững chắc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những tình huống phức tạp và hiểm nghèo. Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 11 (khoá IX), đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh: “Nhìn lại 20 năm đổi mới, chúng ta nhất trí rằng, thành tựu đạt được là to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử trên cả hai mặt thực tiễn và lý luận. Những thành tựu to lớn đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn và sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam”. Với những thành tựu đạt được, Đại hội lần thứ X của Đảng thật sự là “Đại hội của trí tuệ, đoàn kết, đổi mới và phát triển” thể hiện sự kế thừa và quyết tâm cao độ của toàn Đảng, toàn dân tộc thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đó là:Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.

Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.

b. Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn hóa lớn, hiện thân của tinh hoa văn hóa Việt Nam

Thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh hoa văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, hòa mình trong hoạt động phong phú của nhân dân, Hồ Chí Minh đã nhận rõ ý nghĩa lớn lao và vị trí đặc biệt quan trọng của văn hóa, Người chỉ rõ: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khi lãnh đạo toàn dân giành lại độc lập cho dân tộc cũng đã trả lại vị trí xứng đáng và mở ra một thời đại mới cho văn hóa Việt Nam. Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thâm nhập sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội của dân tộc, đã trở thành văn hóa dân tộc. Tư tưởng và toàn bộ sự nghiệp của Người đã trở thành biểu tượng cao đẹp và sáng ngời của văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Đó là sự trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chính vì vậy, các nhà nghiên cứu trong nước và thế giới quan tâm nghiên cứu đến văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh, văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh, văn hóa lao động, văn hóa sống Hồ Chí Minh...

Cái cốt lõi trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người và niềm tin đối với con người hết sức bao la, sâu sắc, tất cả vì con người, tất cả do con người. Đó là một nhân sinh quan, một triết lý sống rất nhân văn, là đạo đức cách mạng của người cộng sản. Người quan niệm: “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”. Chính vì vậy, suốt đời Người đã hy sinh chiến đấu chống áp bức bất công, đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân, cho dân tộc và nhân loại. Như vậy, Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng lỗi lạc, mà còn là một nhà hoạt động thực tiễn đầy tài năng; không chỉ là một nhà chính trị vĩ đại mà còn là một nhà văn hóa kiệt xuất. Ngay từ năm 1923, nhà thơ Nga Ô-xip Man-đen-xtan đã nhận xét rằng: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một nền văn hóa, không phải là văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai”.

4. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, quán triệt Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị “về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. 

Phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện Cuộc vận động trong thời gian qua, việc quán triệt Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; tạo chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực; góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng./.

  (Nguồn: Phòng Thông tin CTTG Tỉnh ủy Quảng Ninh)

Loading...