1. Thực trạng công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc thiểu số ở các huyện miền Tây Nghệ An hiện nay
Miền Tây Nghệ An gồm 11 (trong tổng số 21) đơn vị hành chính cấp xã, huyện của tỉnh Nghệ An: gồm: 1 thị xã và 10 huyện, có diện tích 13.745,1730 km2, chiếm 83,31 trong tổng số 16.498,5322 km2 diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Dân số vùng miền Tây Nghệ An có hơn 1,1 triệu người, chiếm 37% dân số cả tỉnh, trong đó dân số dân tộc thiểu số có 436.452 người chiếm 29% dân số miền núi, và 14% dân số toàn tỉnh, gồm 5 dân tộc chính: Thái, Thổ, Mông, Khơ Mú, Ơ Đu.
Các đơn vị hành chính miền Tây Nghệ An phân bố trên 3 trục đường lớn là Quốc lộ 7A, Quốc lộ 48 và Đường mòn Hồ Chí Minh.
Ranh giới miền Tây Nghệ An, phía Đông Bắc có 3 huyện Quế Phong, Quỳ Châu và Nghĩa Đàn giáp Thanh Hóa; phía Tây Bắc, Tây và Tây Nam giáp CHDCND Lào với 419 km đường biên giới(1); phía Nam có huyện Thanh Chương giáp với Hà Tĩnh; phía Đông giáp với các huyện khu vực thuộc đồng bằng Nghệ An. Địa hình phức tạp, hiểm trở, cơ sở hạ tầng còn thấp kém nhưng lại có vị trí chiến lược trọng yếu về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ an ninh biên giới quốc gia.
Miền Tây Nghệ An là vùng đồi núi giàu tài nguyên thiên nhiên, về kinh tế - xã hội là khu vực nghèo đa dân tộc, có nhiều thuận lợi còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác.
Phát triển đảng viên trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định “Chú trọng và tăng cường công tác phát triển Đảng, sớm khắc phục tình trạng một số cơ sở, địa bàn chưa có đảng viên, tổ chức đảng” (2), “Đi đôi với củng cố, cần chú trọng hơn nữa công tác phát triển Đảng, nhất là ở các vùng dân tộc ít người”(3). Hiện nay, số đảng viên là người dân tộc thiểu số trong cả nước chiếm khoảng 11% của toàn Đảng.
Đối với Nghệ An, số đảng viên là người dân tộc thiểu số có 15.463 đồng chí, chiếm 10% tổng số đảng viên toàn tỉnh (4). Công tác phát triển đảng viên cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các huyện miền Tây Nghệ An góp phần tích cực nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở, tăng cường lực lượng nòng cốt, thực hiện chính sách dân tộc, đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước, tạo sự phấn khởi, tin tưởng đồng thuận của đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến từng người dân. Đặc biệt, nhiều địa phương khu vực miền Tây Nghệ An có vị trị chiến lược trong bảo vệ an ninh quốc gia. Cho nên, quan tâm phát triển đảng viên ở đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ nhằm tằng cường về đội ngũ đảng viên, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cho vùng dân tộc, mà còn là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh quốc phòng cho đất nước.
Những năm qua, cùng với đầu tư phát triển kinh tế, quan tâm gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thì công tác đào tạo đội ngũ cán bộ và phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc thiểu số được Đảng bộ tỉnh Nghệ An hết sức quan tâm.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, công tác phát triển đảng viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên phạm vi cả nước nói chung và các huyện miền Tây Nghệ An nói riêng còn nhiều hạn chế bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển mới của đất nước. Trong quá trình đổi mới ngày càng nhanh của đất nước, ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, yêu cầu phát triển đội ngũ đảng viên trong người dân tộc thiểu số càng trở nên cấp bách, có ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
Khó khăn nhất trong công tác phát triển đảng trong đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay ở các huyện miền Tây Nghệ An là thiếu nguồn. Trở ngại lớn nhất là trình độ văn hóa, theo Điều lệ đảng, đối tượng đảng phải biết chữ, có trình độ ít nhất là tiểu học, nhưng phần đông đối tượng đảng là người đồng bào tham gia các lớp học cảm tình Đảng không biết đọc, không biết viết, nhiều người nghe không hiểu được nghĩa. Nhiều đảng viên đã tốt nghiệp tiểu học, thậm chí THCS, nhưng đọc chữ vẫn chưa thạo. Nếu như năm 2005, số đảng viên người dân tộc ở các huyện miền Tây Nghệ An là 15.584 đồng chí, thì năm 2010là 15.463 đồng chí, giảm 0,98%(5). Đến nay, nhiều thôn, bản còn chưa có đảng viên, chưa thành lập được chi bộ…
Ở nhiều xã, thôn, bản việc hướng dẫn làm thủ tục kết nạp đảng còn sơ sài, yếu kém. Năng lực lãnh đạo của nhiều chi bộ còn hạn chế; cán bộ làm công tác đảng cấp xã, thôn, bản hầu hết chưa nắm hết quy trình; những định kiến, phong tục tập quán lạc hậu trong cộng đồng, gia đình, dòng họ trong đồng bào dân tộc vẫn tồn tại; công tác DS - KHHGĐ còn nhiều bất cập, nhiều cán bộ, đảng viên là đồng bào còn sinh con thứ 3, thứ 4… Ảnh hưởng trực tiếp đến việc kết nạp đảng viên và chất lượng đảng viên.
Lợi dụng chủ trương dân chủ của Đảng và Nhà nước, các tổ chức phản động ở bên ngoài xúi giục một số người dân, nói xấu bôi nhọ Đảng, tuyên truyền không theo Đảng, không thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước… Làm thế nào để tháo gỡ khó khăn trong công tác phát triển Đảng đòi hỏi phải có những giải pháp.
2. Một số giải pháp đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở các huyện miền Tây Nghệ An hiện nay
2.1. Giải quyết tốt vấn đề nhận thức, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong đồng bào dân tộc thiểu số
Phải xác định công tác xây dựng tổ chức đảng, kết nạp đảng viên ở vùng sâu, vùng xa, là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trên cơ sở đó, tập trung nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng, cán bộ, đảng viên về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của công tác phát triển đảng viên, coi phát triển đảng là một trong những giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng đảng viên và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng.
Hàng năm, các Đảng bộ cơ sở cần tiến hành sơ kết công tác phát triển đảng viên, chỉ ra những mặt làm được, chưa làm được; làm rõ nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém, trên cơ sở đó đề ra những chủ trương, biện pháp thiết thực chỉ đạo công tác phát triển Đảng thời gian tới; tập trung khắc phục những yếu kém của năm trước, nhiệm kỳ trước, làm cho công tác phát triển đảng viên đạt chỉ tiêu về số lượng, đồng thời đảm bảo chất lượng, đảm bảo tỷ lệ cơ cấu hợp lý giữa các đối tượng; giao chỉ tiêu kết nạp đảng viên đối với các tổ chức cơ sở Đảng ở các xã, thôn, bản khắc phục dứt điểm tình trạng chi bộ thôn nhiều năm liền không kết nạp được đảng viên.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đến tận các thôn, bản đồng bào; bồi dưỡng lòng yêu nước, truyền thống lịch sử vẻ vang của Đảng, của dân tộc, phẩm chất đạo đức cách mạng trong đồng bào, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.
Thông qua các loại hình sinh hoạt, hội họp, các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên, nhân dân ở các thôn, bản nhận thức rõ phát triển đảng viên là một nội dung trọng yếu trong công tác xây dựng Đảng. Cần làm cho cán bộ, đảng viên đồng bào dân tộc hiểu rõ thực trạng, ưu, nhược điểm của đội ngũ đảng viên. Bên cạnh đó, Đảng uỷ xã cũng như các chi bộ ở các thôn, bản cần làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền để đồng bào hiểu đúng về Đảng, về những giá trị, quyền lợi khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, tránh việc do thiếu hiểu biết mà nhiều người khi được giới thiệu vào Đảng đã từ chối. Bên cạnh đó cần có biện pháp phòng, chống các luồng tư tưởng gây ảnh hưởng tiêu cực tới tư tưởng của quần chúng, giúp cho đồng bào nhận rõ về âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch kích động, lôi kéo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
2.2. Quy hoạch và bồi dưỡng nguồn phát triển đảng viên phù hợp với điều kiện cụ thể của đồng bào dân tộc
Muốn công tác phát triển Đảng ở vùng đồng bào dân tộc của các huyện miền Tây Nghệ An đạt kết quả tốt thì yếu tố then chốt, quyết định là phải tập trung đào tạo, phát triển nguồn. Nguồn ở đây chính là những học sinh, sinh viên người dân tộc đang theo học tại các trường nội trú, trường cao đẳng, đại học sau khi ra trường sẽ là nguồn nhân lực có chất lượng trở về phục vụ quê hương, làng bản. Do đó, hệ thống giáo dục dân tộc các trường nội trú cần được đầu tư, phát triển mạnh, nhằm tạo nguồn cán bộ đảng viên tương lai có tư cách, bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ tốt về văn hóa và nghiệp vụ. Bên cạnh đó, nguồn phát triển Đảng còn chính là những người có uy tín đối với đồng bào, kể cả những người đã lớn tuổi, nếu trình độ họ còn yếu thì phải đào tạo. Hàng năm, các TCCSĐ tiến hành khảo sát số lượng, chất lượng quần chúng ưu tú để xây dựng kế hoạch công tác tạo nguồn. Quy hoạch nguồn phát triển đảng viên cần đảm bảo các yêu cầu: Đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý; đảm bảo chất lượng; đảm bảo về phẩm chất chính trị; có phẩm chất đạo đức tốt; có năng lực thực tiễn trong các phong trào quần chúng… Những nơi khó khăn về nguồn phát triển đảng viên cần vận dụng điểm (1.2b) Quy định số 23 - QĐ/TW để kết nạp đối tượng quần chúng có trình độ học vấn tối thiểu là tiểu học(6).
Mở lớp đào tạo cán bộ dân tộc để nâng cao trình độ cho các đảng viên, giúp họ vững vàng về chính trị, hiểu biết về chuyên môn để phục vụ tốt hơn công tác dân tộc của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, để họ có điều kiện giúp đỡ bà con phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và pháp luật đến tận các thôn bản. Đảng bộ tỉnh cần chỉ đạo các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức, xây dựng kế hoạch giảng dạy phù hợp với đối tượng là người dân tộc thiểu số như bố trí thời gian mở các lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng tại cơ sở phù hợp, hỗ trợ về kinh phí… coi đây là một giải pháp để tạo nguồn và nâng cao chất lượng nguồn kết nạp đảng viên. Đối với những cán bộ, đảng viên ưu tú, huyện, tỉnh cần chủ trương cơ cấu, quy hoạch, sử dụng vào những vị trí quan trọng ở các cấp chính quyền để đồng bào dân tộc thấy được Đảng, Nhà nước luôn bình đẳng về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cần hướng dẫn cụ thể của Trung ương về chính sách đối với các trường hợp sinh con thứ 3.
Nội dung công tác phát triển đảng viên ở các thôn, bản cần được nhấn mạnh trong các chương trình, đề án thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp; những hạn chế, yếu kém trong công tác phát triển Đảng cần được khắc phục kịp thời.
Đảng bộ tỉnh cần có các nghị quyết chuyên đề về công tác dân tộc, các chương trình phối hợp chung giữa các tổ chức chính trị xã hội, các phong trào quần chúng với hoạt động văn hóa của đồng bào dân tộc. Cấp ủy chính quyền, đoàn thể các cấp triển khai thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đến với đồng bào đân tộc thiểu số. Chú trọng đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động trong công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số. Hàng năm định kỳ 6 tháng Đảng bộ tỉnh cần sơ kết đánh giá thực hiện công tác phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số để thấy rõ những thuận lợi khó khăn, vướng mắc qua đó rút kinh nghiệm, đề ra các giải pháp có hiệu quả đúng hướng.
2.3. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác vận động quần chúng và công tác xây dựng các đoàn thể quần chúng vững mạnh toàn diện
Công tác dân tộc là một nội dung quan trọng của công tác vận động quần chúng vào Đảng. Công tác dân tộc không chỉ riêng là công tác của mặt trận tổ quốc, càng không phải chỉ riêng là công tác của đội ngũ chuyên trách công tác dân tộc. Tính chiến lược của công tác dân tộc là đòi hỏi toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo phải có trách nhiệm chăm lo, thường xuyên theo dõi, nắm bắt tâm tư nguyện vọng chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số để giải quyết kịp thời, đúng quan điểm đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước nhằm giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị cơ sở.
Các cấp ủy đảng, trực tiếp là các chi bộ, đảng bộ cơ sở giám sát việc thực hiện các chính sách, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về công tác dân tộc, thường xuyên nâng cao nhận thức về vấn đề này cho đội ngũ đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực học tập để nâng cao trình độ bổ sung kiến thức, trong đó cần nâng cao nhận thức về vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho việc tuyên truyền chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng... Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một cơ quan lãnh đạo vững chắc ở địa phương, theo đúng đường lối, chính sách của Trung ương”(7).
Hiện nay, chủ yếu do trình độ về văn hóa, chuyên môn của cán bộ dân tộc thiếu số vẫn còn thấp, nếu so với tiêu chí phát triển Đảng thì chưa đáp ứng được, nên hạn chế đến công tác phát triển Đảng, cũng như chất lượng đảng viên. Do đó, cần tập trung chỉ đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các đoàn thể quần chúng; có chủ trương xây dựng và củng cố cơ sở đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh ở các vùng dân tộc thiếu số; nâng cao chất lượng, hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào, thông qua hoạt động để tập hợp, thu hút đông đảo đoàn viên, thanh niên ở các thôn, bản tham gia. Đặc biệt, chú trọng xây dựng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh ở các thôn, bản và có thể coi đây là một trong những kênh tạo nguồn quan trọng nhất để kết nạp đảng viên.
2.4. Thực hiện tốt quy trình kết nạp và quản lý đảng viên ở các thôn, bản
Đối với những đối tượng có đủ tiêu chuẩn và điều kiện kết nạp Đảng, các chi bộ cần kịp thời hướng dẫn, nhanh chóng hoàn chỉnh hồ sơ xét kết nạp. Việc kết nạp quần chúng phải được tiến hành đúng thủ tục quy định của Đảng, đảm bảo đúng nguyên tắc, phát huy dân chủ, coi trọng chất lượng, tránh tư tưởng xem nhẹ, giản đơn, đồng thời chấn chỉnh kịp thời tư tưởng hẹp hòi, định kiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Công việc cách mạng rất nhiều, không sợ thiếu việc. Phải chú ý phát triển đảng vào thanh niên. Không nên hẹp hòi. Nhưng việc phát triển Đảng phải làm cẩn thận, không được cẩu thả”(8). Lễ kết nạp đảng viên, công nhận đảng viên chính thức và phát thẻ đảng viên cần được tổ chức trang trọng, chu đáo, tạo ấn tượng tốt đẹp đối với đảng viên. Sau khi được kết nạp, đảng viên cần phải có chương trình học tập, nâng cao trình độ để đảm bảo đúng quy định của Đảng với sự giúp đỡ, kiểm tra của TCCSĐ, Hồ Chí Minh dạy: “Trong thời kỳ dự bị, Đảng phải dạy dỗ cho họ và trao việc cho họ làm. Đồng thời, Đảng phải xem xét tính nết, công tác và lịch sử của họ...”(9). Chú trọng việc phân công công tác để thử thách, rèn luyện, kết hợp với tích cực tuyên truyền, tạo dư luận tốt cho đồng bào ủng hộ quần chúng là đảng viên, cảm tình đảng. Nên chăng định kỳ 3 tháng, đảng uỷ, chi bộ cơ sở tổ chức gặp gỡ đối thoại với đối tượng nguồn là người dân tộc thiểu số để một mặt nắm được động cơ phấn đấu rèn luyện, tâm tư nguyện vọng, kiến nghị đề xuất của họ, mặt khác uốn nắn, nhắc nhở những điểm còn hạn chế, xác định phương hướng, nhiệm vụ, con đường tiếp tục rèn luyện.
Tổ chức tốt việc lấy ý kiến nhận xét đánh giá của quần chúng, của các già làng, trưởng thôn, bản làng. Không ai khác chính họ là người có khả năng nhận xét, đánh giá ưu, khuyết điểm của quần chúng ưu tú, tích cực. Đây cũng là kênh thông tin quan trọng giúp cấp uỷ, chi bộ có thêm cơ sở để xem xét, quyết định.
Tăng cường công tác kiểm tra nghiệp vụ quản lý đảng viên, công tác quy hoạch, tạo nguồn, xét kết nạp đảng viên. Đẩy mạnh việc tổ chức các lớp bồi dưỡng cảm tình Đảng ngay tại thôn bản, tạo điều kiện thuận lợi cho quần chúng tham gia học tập đạt kết quả tốt, đây là khâu mấu chốt để tạo nên sự đồng bộ, nhịp nhàng trong hoạt động của tổ chức đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc thiểu số. Đồng thời, cần phải xây dựng chương trình, kế hoạch và các giải pháp để khắc phục tình trạng các thôn, bản chưa có đảng viên, chi bộ. Xây dựng kế hoạch, triển khai có hiệu quả công tác phát triển tổ chức đảng và đảng viên thông qua việc tăng cường đưa cán bộ, đảng viên chủ chốt ở xã xuống thôn, bản để làm nòng cốt trong các hoạt động và tạo nguồn phát triển đảng viên tại chỗ.
2.5. Thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Việc phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống cho bà con dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa là cơ sở để bồi dưỡng, phát triển được đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, để lãnh đạo nhân dân tạo lập cuộc sống mới. Thực tế cho thấy, để làm thay đổi những thói quen trong nếp nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số không dễ. Với bà con, “trăm nghe không bằng một thấy” và thấy ai cũng không bằng thấy chính người ở bản làng của họ làm. Ðiều này có vẻ đơn giản nhưng là thách thức lớn trong việc vận động làm thay đổi những tập tục lạc hậu của đồng bào. Để giải quyết những vấn đề này cần có các giải pháp đồng bộ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, đồng thời kết hợp tốt các giải pháp cả trước mắt và lâu dài tạo cơ hội cho sự phát triển bền vững; giải pháp quan trọng hàng đầu là cần sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước trong việc phát triển ngành, nghề ở miền núi như: tập trung đào tạo nghề, phát triển các nghề dịch vụ, tạo việc làm cho lao động quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, giúp đồng bào phát triển kinh tế, văn hoá; đầu tư khai thác những lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên. Từ đó, nâng cao đời sống vật chất, nâng cao trình độ văn hóa cho đồng bào là điều kiện thuận để có nguồn xem xét, bồi dưỡng, kết nạp đảng viên; có chế độ đãi ngộ, ưu tiên cho cán bộ, đảng viên vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc để người dân tin và phấn đấu vào Đảng.
3. Kết luận
Trên đây là những giải pháp cơ bản để đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong đồng bào dân tộc thiểu số ở các huyện miền Tây Nghệ An. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên là điều kiện đảm bảo sự ổn định trong việc hình thành và phát triển nhân tố mới, là bước ngoặt quan trọng trong việc đẩy mạnh phát triển Đảng ở các huyện miền Tây Nghệ An. Phát triển Đảng là để tăng cường sức mạnh cho Đảng, để Đảng lãnh đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, từ đó tạo môi trường thu hút và kết nạp nhiều quần chúng ưu tú vào Đảng. Tăng cường phát triển Đảng trong đồng bào dân tộc thiểu số cũng đồng nghĩa với việc góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các huyện miền Tây Nghệ An hiện nay. Thiết nghĩ, khắc phục những trở ngại, hạn chế nêu trên là nhiệm vụ có tính cấp thiết, cần sự quan tâm hơn nữa của các cấp ủy cấp trên, không chỉ riêng với vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở miền Tây Nghệ An mà với nhiều địa phương khác trong cả nước có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Chú thích:
(1). Phía Lào là 3 tỉnh Xiêng Khoảng, Boli Khăm Xay, Hủa Phăn; phía Nghệ An là 6 huyện: Quế Phong, Quỳ Châu, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Thanh Chương.
(2). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khóa X, Nxb. CTQG, H.2006, Tr 301.
(3). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Nxb. CTQG, H.2002, tập 24, Tr. 951.
(4). Tỉnh ủy Nghệ An, Báo cáo công tác phát triển Đảng viên 2005 - 2010, lưu Tỉnh ủy Nghệ An.
(5). Tỉnh ủy Nghệ An, Báo cáo công tác phát triển Đảng viên 2005 - 2010, lưu Tỉnh ủy Nghệ An.
(6). Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Quy định về thi hành điều lệ đảng
Điều 1 (điểm 2): b) Người vào Đảng đang sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn… phải có trình độ học vấn tối thiểu là tiểu học.
(7). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. CTQG, H.2002, tập 11, tr.23.
(8). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. CTQG, H.2000, tập 12, tr.196 -197
(9). Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. CTQG, H.2000, tập 5, tr.266
Trần Cao Nguyên